1. Định nghĩa
Áp-xe nóng là một ổ mủ cấp tính khu trú, hình thành một bọng chứa mới tạo ra trong các phần mềm của cơ thể với bốn triệu chứng cơ bản: sưng – nóng – đỏ – đau.
2. Nguyên nhân
Áp-xe nóng tạo ra do sự xâm nhập vào tổ chức dưới da của các vi khuẩn sinh mủ như:
– Thường gặp nhất là tụ cầu trắng hay vàng, liên cầu.
– Hiếm thấy hơn là: trực khuẩn Eberth, phế cầu (pneumocoque), lậu cầu (gonocoque) hay trực khuẩn coli (colibacille).
– Vi khuẩn kỵ khí (microbes anaérobies).
Ngoài ra, còn có thể gây ra áp-xe nóng bằng một số hóa chất gây kích thích như tinh dầu nhưa thông, iot, nitrat bạc.
3. Sinh lý bệnh và giải phẫu bệnh
– Áp-xe nóng là hậu quả của sự chống đỡ tại chỗ của cơ thể, thể hiện bằng ba loại phản ứng của hiện tượng viêm:
+ Dãn mạch tích cực kèm xuất huyết thanh dịch.
+ Xuyên mạch bạch cầu và thực bào để bao vây và tiêu diệt các vi khuẩn sinh mủ.
+ Tạo lập một hàng rào xơ hóa ở chu vi, giới hạn sự lan rộng của nhiễm trùng.
Như vậy, áp-xe nóng là một phản ứng tốt và có hiệu quả của cơ thể, không cho nhiễm trùng lan rộng.
– Về cấu tạo, áp-xe nóng có hai thành phần:
+ Vách ba: cấu tạo bởi ba lớp:
- Lớp trong: nơi tiếp xúc ổ mủ, là mạng lưới fibrin giam giữ các bạch cầu và vi khuẩn.
- Lớp giữa: tổ chức liên kết non, chỉ có những mạch máu mới tạo.
- Lớp ngoài: là một tổ chức xơ, một hàng rào ngăn cản giữa những mô nhiễm trùng và mô lành.
+ Bọng chứa: chứa mủ, tính chất tùy thuộc loại vi khuẩn:
- Mủ đặc dính, màu kem sữa, không mùi: áp-xe do tụ cầu
- Mủ loãng, mủ pha thanh dịch: áp-xe do liên cầu
- Mủ loãng xám bẩn, mùi thối: do vi khuẩn yếm khí.
4. Triệu chứng lâm sàng và tiến triển
Áp-xe nóng tiến triển qua hai giai đoạn.
4.1. Giai đoạn viêm lan tỏa (thời kỳ khởi phát)
– Bệnh nhân đến khám vì đau nhức, liên tục tăng dần, khu trú ở một vùng của cơ thể (các phần mềm).
– Có dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân: sốt, ớn lạnh, trạng thái uể oải, nhức đầu.
– Khám thấy một mảng có bốn triệu chứng cơ bản:
+ Cứng ở trung tâm và đóng bánh ở viền ngoài.
+ Nóng
+ Đỏ.
+ Đau khi sờ ấn.
– Kèm theo có thể phát hiện:
+ Một ngõ vào: là một vết thương nhỏ, một chỗ tiêm dưới da hay bắp thịt.
+ Những dấu hiệu lan tỏa: lằn đỏ của viêm bạch mạch, viêm hạch cấp tính.
+ Một bệnh tật sẵn có là yếu tố nặng thêm thường gặp nhất là đái tháo đường.
4.2. Giai đoạn tụ mủ (sau 5-7 ngày)
– Đau nhói buốt mất đi và đau tăng thêm có cảm giác nhịp đập theo mạch, làm bệnh nhân mất ngủ.
– Dấu hiệu toàn thân nặng hơn: sốt cao liên tục hay dao động, mệt mỏi nhiều hơn, thử máu thấy bạch cầu tăng, chủ yếu là bạch cầu đa nhân.
– Mảng cứng khu trú lại, giới hạn rõ dần, có dạng một khối u đóng bánh ở viền ngoài, bây giờ sờ thấy mềm ở trung tâm, có thể phát hiện dấu chuyển sóng (fluctuation): hai đầu ngón tay đặt cách nhau vài centimet ở hai cực của ổ mủ, khi ấn ở bên-này thì ngón tay bên kia bị xô đẩy. Dấu hiệu này có ở mọi hướng của ổ áp-xe. Khác với cơ vùng đùi dấu hiệu này chỉ có khi tìm theo chiều ngang của thớ cơ thẳng đùi.
4.3. Cách tiến triển của áp-xe nóng
– Nếu được phát hiện và rạch áp-xe để tháo mủ, lấy mủ cấy vi trùng để làm kháng sinh đồ và dùng kháng sinh có hiệu lực, vết rạch sẽ lành sẹo trong vòng 5-7 ngày.
– Nếu không được rạch, áp-xe nóng có thể tự phá vỡ ra da và rò mủ kéo dài. Tình trạng ứ mủ có thể gây ra biến chứng:
+ Tại chỗ và khu vực: viêm bạch mạch cấp tính, viêm hạch, viêm hạch mủ.
+ Toàn thân: nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn mủ huyết.
+ Áp-xe biến thành viêm tấy lan tỏa nếu bệnh nhân có thêm một bệnh mạn tính kèm theo như đái tháo đường, suy gan, suy thận. Ngược lại áp-xe nóng có thể làm cho bệnh sẵn có nặng thêm, ví dụ bệnh đái tháo đường.